Ống
Dùng đồng thời với vitamin D và các dẫn chất sẽ làm tăng hấp thu calcium.
Không dùng calcium trong vòng 3 giờ trước hoặc sau khi uống tetracycline, fluor, biphosphonate, quinolone do có thể tạo phức khó tan không hấp thu được.
Calcium làm tăng độc tính đối với tim của các glycoside digitalis vì tăng nồng độ calcium huyết sẽ làm tăng tác dụng ức chế Na+ – K+ – ATPase của glycoside tim.
Glucocorticoid làm giảm hấp thu calcium qua đường tiêu hóa.
Thuốc lợi tiểu nhóm thiazide giảm calcium niệu nên có nguy cơ làm tăng nồng độ calcium huyết.
Rối loạn tiêu hóa (táo bón, đầy hơi, buồn nôn, nôn).
Dùng liều cao làm thay đổi calcium huyết, calci niệu, gây nổi mụn trên da diện rộng, nổi mề đay, mẩn ngứa.
Thận trọng khi sử dụng cho bệnh nhân suy thận hoặc sỏi thận, bệnh tim hay sarcoidose.
Không nên dùng thuốc để điều trị trong thời gian kéo dài.
Tăng calcium huyết có thể xảy ra khi chức năng thận giảm, cần thường xuyên kiểm tra calcium huyết. Nếu cần thiết thì phải giảm liều hoặc ngưng dùng thuốc.
Tránh dùng ở những bệnh nhân bị sỏi thận calcium, hoặc có tiền sử sỏi thận. Bệnh nhân có nguy cơ sỏi thận cần phải uống nhiều nước.
Ngoại trừ những chỉ định thật cụ thể, tránh dùng vitamin D liều cao trong khi đang điều trị bằng calcium.
Phân bố: Sau khi hấp thu, calci sẽ vào dịch ngoại bào trước, sau đó sẽ kết hợp nhanh chóng vào mô xương. Tuy nhiên, sự hình thành xương không được kích thích bằng điều trị calci. Xương chứa 99% calci trong cơ thể, 1% lượng còn lại phân phối đồng thời giữa dịch nội bào và dịch ngoại bào.
Tổng nồng độ calci bình thường trong máu khoảng 9-10,4 mg/dL (4,5 – 5,2 mEq/L), nhưng chỉ có calci dạng ion mới có tác dụng sinh lý.
Nồng độ calci trong dịch não tủy chiếm khoảng 50% nồng độ calci trong máu và có khuynh hướng phản ánh nồng độ ion calci trong máu. Calci qua được nhau thai và đạt nồng độ trong bào thai cao hơn trong máu của người mẹ. Calci phân bố vào sữa mẹ.
Thải trừ: Calci được thải trừ chủ yếu qua phân, gồm cả calci không hấp thu và tiết qua mật và dịch tụy vào trong lòng của đường tiêu hóa. Phần lớn calci được lọc qua tiểu cầu thận và được tái hấp thu tại nhánh lên quai Henle, ống lượn gần và ống lượn xa. Chỉ một lượng nhỏ cation được bài tiết qua nước tiểu. Hormon tuyến cận giáp, vitamin D và thuốc lợi tiểu nhóm thiazid làm giảm bài tiết calci qua nước tiểu, trong khi thuốc lợi tiểu nhóm khác, calcitonin và hormon tăng trưởng làm tăng sự thải trừ cation qua thận. Sự thải trừ calci giảm khi giảm calci dạng ion trong máu nhưng tăng tương ứng khi ion calci tăng trong huyết tương. Đối với người lớn có chế độ ăn điều độ, sự thải trừ calci có thể cao khoảng 250 – 300mg mỗi ngày. Với chế độ ăn ít calci, sự thải trừ thường không vượt quá 150mg mỗi ngày. Sự thải trừ calci giảm trong suốt quá trình mang thai và giai đoạn đầu của suy thận. Calci cũng được thải trừ qua tuyến mồ hôi.