IVM – Phương pháp nuôi trứng non trưởng thành trong ống nghiệm
Phương pháp IVM đã được sử dụng trong lâm sàng với nhiều ưu điểm như quy trình đơn giản, không cần sử dụng hormone để kích thích buồng trứng nhờ đó giảm thiểu nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS).
Một số trường hợp nên sử dụng IVM trong điều trị vô sinh, hiếm muộn:
- Phụ nữ suy giảm dự trữ buồng trứng AMH thấp.
- Phụ nữ mắc PCOS với số nang trứng thứ cấp từ 10 trở lên, đáp ứng kém với các kích thích.
- Phụ nữ trẻ từ 35 tuổi trở xuống có kinh nguyệt bình thường hoặc đang mắc bệnh ung thư.
- Các trường hợp đã từng IVF thất bại hoặc đã xác định nguyên nhân vô sinh.
Quá trình trưởng thành trứng non trong ống nghiệm
- Sử dụng hormonal Priming: IVM đặt tiêu chí quan trọng nhất là thu nhận trứng non mà không cần kích thích hormone. Tuy nhiên, tỷ lệ mang thai theo tiêu chí này rất thấp. Bởi vậy, cần cải thiện số lượng trứng non có chất lượng cao bằng cách sử dụng gonadotropin kích thích nhẹ buồng trứng;
- Chọn thời điểm thu nhận trứng: Vì chu kỳ rụng trứng có ảnh hưởng lớn tới kết quả thu nhận trứng nên cần lựa chọn thời điểm thu nhận trứng cho phù hợp. Siêu âm là phương pháp hỗ trợ tốt nhất. Nghiên cứu cho thấy nang trứng có đường kính dưới 13mm có số trứng được thu nhận, trưởng thành, thụ tinh và phát triển thành phôi cao. Khuyến cáo không thu nhận trứng non trong chu kỳ mà đường kính nang trứng từ 10mm trở lên;
- Thu nhận trứng: Sử dụng kỹ thuật siêu âm kết hợp với kim chọc hút trứng để thu nhận trứng. Dịch nang được chứa trong dung dịch muối 0,9%, bổ sung 2U heparin. Do trong dịch nang hút được có lẫn nhiều máu nên cần lọc để quá trình thu nhận trứng non thực hiện suôn sẻ hơn;
- Nuôi trứng non trưởng thành (IVM): Môi trường dùng để nuôi cấy trứng non cần bổ sung các gonadotropin, steroid, yếu tố tăng trưởng, huyết thanh và protein. Thời gian nuôi trứng non trưởng thành từ 28 – 52 giờ. Các trứng trưởng thành trong vòng 30 giờ sau khi thu nhận có khả năng phát triển tốt hơn so với trứng có thời gian trưởng thành lâu hơn.
Các lưu ý sau khi có trứng trưởng thành từ IVM
Thụ tinh: Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI) được khuyến cáo sử dụng sau khi IVM ngay cả khi tinh trùng có các thông số phân tích bình thường.
Một lý do khác để sử dụng ICSI đó là tế bào trứng trưởng thành từ IVM thường có lớp tế bào cumulus nguyên vẹn nên rất khó đánh giá chất lượng trứng trưởng thành.
Tuy nhiên vẫn có thể sử dụng IVF thay cho ICSI nếu tinh trùng có chất lượng tốt.
Chuẩn bị nội mạc tử cung: Trứng non thường được thu nhận trước khi các nang trứng phát triển nên tại thời điểm lấy trứng thì estradiol trong nội mạc tử cung ở mức thấp.
Kết quả của việc nuôi trứng bên ngoài là có sự lệch pha giữa phôi và nội mạc tử cung, do đó việc chuẩn bị nội mạc tử cung là rất quan trọng trong IVM.
Cách chuẩn bị niêm mạc tử cung phổ biến là bổ sung 2-4 mg estradiol valerate mỗi ngày từ ngày thu nhận trứng non và tiêm progesterol vào tĩnh mạch sau thời điểm đó 48 giờ (lúc tiến hành IVF hoặc ICSI).
Đậu thai và sinh con: Tỷ lệ mang thai trung bình của phụ nữ mắc PCOS khoảng 22 – 30% và ở phụ nữ bình thường là 18 – 30%.
Gần đây, tỷ lệ mang thai có thể lên đến 52% với tỷ lệ cấy ghép đạt 27% khi chuyển phôi nang sau IVM nếu quy trình lựa chọn tốt.
Trong trường hợp mang thai, cần bổ sung hormone đủ lâu vì không có sự hỗ trợ của tuyến yên hay thể vàng.
Để nhận thông tin khám với Bs Nhật, vui lòng nhấn vào link: https://m.me/bsphamquangnhat